Ngày cập nhật 12 Tháng Năm 2017
Đặc biệt, năm 2014-2015, sau 1 thập kỷ phát triển hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp đã đưa một số sự kiện cây trồng biến đổi gen vào sản xuất. Đây được coi là dấu mốc quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ sinh học tại Việt Nam. Việc ứng dụng cây trồng biến đổi gen trong canh tác tại Việt Nam được xem là một giải pháp quan trọng và có ý nghĩa giúp nông dân tiếp cận gần hơn với các giải pháp công nghệ và canh tác tiên tiến nhất trên thế giới, cung cấp thêm cho nông dân trong nước cơ hội lựa chọn sử dụng các sản phẩm giống cây trồng tốt, hiệu quả canh tác cao. Việc khai thác các giống ngô chuyển gen mang tính trạng kháng sâu và chống chịu thuốc trừ cỏ được kỳ vọng là giúp cho nông dân trồng ngô tại các vùng chịu áp lực sâu hại và cỏ dại có thể canh tác dễ dàng, thuận tiện và hiệu quả hơn. Đồng thời, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong giai đoạn hiện nay cũng như đáp ứng và dần tự chủ nguồn cung cho chuỗi sản xuất thức ăn chăn nuôi đang ngày một tăng cao trong nước.
Kết luận hội nghị, ông Cao Đức Phát – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói: “Thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp là hết sức cần thiết và là chủ chương đúng đắn của Đảng, Chính phủ. Trong 10 năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu chọn tạo chưa nhiều và chưa thể hiện tính vượt trội, chưa hình thành ngành công nghiệp công nghệ sinh học. Nguyên nhân là do nguồn lực ít mà phân tán, thiếu cơ chế chính sách để huy động nguồn lực xã hội tham gia, vì vậy, cần dốc lực nhiều hơn nữa cho công tác đào tạo; xây dựng phòng thí nghiệm theo hướng tập trung, có chọn lọc; phải tổ chức các đề tài nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm mạnh hơn; có cơ chế rộng mở để xã hội quan tâm, các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu để nghiên cứu đó sớm được đi vào thực tiễn.
Theo Phòng Quản lý nguồn gen và An toàn sinh học
Cục Bảo tồn đa dạng sinh học