Nghiên cứu về gen GH (Growth hormone) trên bò

Ngày cập nhật 13 Tháng Hai 2014

Quá trình tăng trưởng ở động vật được điều khiển bởi một hệ thống phức tạp, trong đó trục somatotropic đóng vai trò quan trọng. Các gen hoạt động trên trục somatotropic chịu trách nhiệm tăng trưởng, mà chủ yếu là GH đã tác động lên sự phát triển của xương và cơ, được xác định là các gen chủ yếu trong quá trình sinh học và đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa sự tăng trưởng và phát triển.Đăng ngày 13-02-2014 trong chuyên mục Tin thế giới

Hơn nữa sự thay thế leucine /valine tại vị trí axit amin 127 của gen GH có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, chuyển đổi thức ăn tiêu thụ/ thức ăn cũng như những đặc điểm thân thịt ở bò sữa và bò thịt. Gen GH là một peptide được mã hóa bởi một gen duy nhất có  trọng lượng  phân tử khoảng 22 KDa, nằm trên nhiễm sắc thể số 19, dài 2.5kb bao gồm năm exon và bốn intron (Wallis 1973; Woychick và cs., 1982; Gordon và cs., 1983; Hediger và cs., 1990). Một số đa hình đã được xác định ở gen GH dựa vào enzyme giới hạn MspI (Cowan và cs., 1989; Hilbert và cs., 1989), theo đó Zhang và cs (1993) đã xác định được  đa hình trong intron 3 ở vị trí 1547.  Nhiều nghiên cứu khác cũng nhận định gen GH đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển của động vật và được xem là một ứng cử viên cho các đặc điểm kinh tế trong các loài vật nuôi. Theo đó các đột biến của gen này đã được mô tả ở bò sữa (Lagziel và cs., 1996; Yao và cs., 1996), bò thịt (Taylor và cs., 1998;  Barendse và cs, 2006), Cừu (Marques MDO và cs., 2006), dê (Malveiro  và cs., 2001), heo (Knorr và cs., 1998), gia cầm (Feng và cs., 1997; Kuhnlein và cs., 1997).

 Kết quả  nghiên cứu của Pilla và cs (1994) cho rằng  ở gia súc mang kiểu gen BB có chu vi ngực cao nhất và chiều dài ngực thấp nhất, theo đó Chreneck và cs (1998) nhận định gia súc mang kiểu gen BB có trọng lượng cơ thể thấp hơn các gia súc mang kiểu gen AB, BB ở các lứa tuổi khác nhau (dẫn liệu của Di Stasio và cs., 2002). Di Stasio và cs (2002) tiến hành khảo sát nghiên cứu gen GH và PIT1 trên 287 cá thể bê đực ở Ý với các tính trạng liên qua đến năng suất trọng lượng lúc 5, 7 và 11 tháng tuổi, tăng trọng hàng ngày, kích thước vai chiều cao (WH), chiều dài thân (TL), chu vi ngực (CG) lúc 12 tháng tuổi và cấu tạo thân thịt chiều rộng vai (WW), cơ bắp vai (SM), chiều rộng thịt thăn (LW), độ dày thăn (LT), cơ bắp đùi (TM), xương mỏng (BT), kết quả chưa tìm thấy sự liên kết giữa gen và tính trạng năng suất.

Gill và cs., 2010. Xác định mối tương quan giữa đột biến điểm trên nhiều gen tiến cử và tính trạng thịt xẻ và chất lượng thịt trên quần thể bò lai Angus. Kết quả cho thấy gen GH có ảnh hưởng lên mắt thịt và chiều dài thăn thịt.TheoGrossi và cs (2010) đa hình GH có ảnh hưởng trọng lượng cai sữa, trọng lượng bê lứa đầu với ước tính phương sai kiểu hình tương ứng 8 và 33. Tần số alen của kiểu gen GH được ghi nhận của L, V tương ứng là 0.65 và 0.35 cho GH .Trọng lượng cơ thể và khả năng hấp thụ thức ăn chăn nuôi phụ thuộc rất nhiều vào kiểu. Trong đó kiểu gen dị hợp tử LV chiếm nhiều nhất và có ảnh hưởng đến lượng thức ăn ăn. Các kiểu gen GH cũng ảnh hưởng đến chỉ tiêu số lượng (kg) thịt trong thân thịt. Kiểu gen đồng hợp tử LL và kiểu gen dị hợp tử LV đã được chứng minh có liên quan đến lắng đọng thịt cao hơn so với kiểu gen VV, sự khác biệt đạt 3,20 kg (LL và VV) và 2,56 kg (LV vs VV).

Theo IAS