Xu hướng gần đây trong việc chấp nhận kỹ thuật di truyền (GE)

Ngày cập nhật 13 Tháng Mười Hai 2019

Cây trồng chịu thuốc diệt cỏ (HT), chịu được thuốc diệt cỏ mạnh (như glyphosate, glufosinate và dicamba), cung cấp cho nông dân nhiều lựa chọn để kiểm soát cỏ dại hiệu quả. Dựa trên dữ liệu khảo sát của USDA, tỷ lệ mẫu đất trồng đậu nành trong nước trồng bằng hạt HT đã tăng từ 17% năm 1997 lên 68% năm 2001, trước khi cao ở mức 94% vào năm 2014. Diện tích bông HT đã tăng từ khoảng 10% năm 1997 lên 56% Năm 2001, và đạt mức cao 98% vào năm 2019.

Tỷ lệ chấp nhận ngô HT tăng trưởng khá chậm ngay sau khi thương mại hóa hạt giống GE. Tuy nhiên, tỷ lệ chấp nhận tăng hiện tại khoảng 90% mẫu ngô trong nước được sản xuất với hạt HT.

Cây trồng chống côn trùng, chứa gen từ vi khuẩn đất Bt (Bacillus thuringiensis) và sản xuất protein diệt côn trùng, đã có sẵn cho ngô và bông từ năm 1996. Diện tích ngô Bt trong nước tăng từ 8% năm 1997 lên 19% vào năm 2000, trước đó leo lên 83% vào năm 2019. Diện tích trồng bông Bt cũng được mở rộng, từ 15% diện tích trồng bông của Hoa Kỳ năm 1997 lên 37% vào năm 2001. Hiện tại, 92% diện tích bông của Hoa Kỳ được trồng bằng hạt giống kháng sâu, biến đổi gen.

Sự gia tăng tỷ lệ áp dụng cho ngô Bt có thể là do sự ra đời thương mại của các giống mới kháng sâu hại bắp và sâu hạt rễ ngô (trước năm 2003, các giống ngô Bt chỉ nhắm mục tiêu sâu đục thân ngô châu Âu). Tỷ lệ chấp nhận đối với ngô Bt có thể dao động theo thời gian, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của sâu đục thân ngô châu Âu và nhiễm sâu hại rễ ngô. Tương tự, tỷ lệ chấp nhận cho bông Bt có thể phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của sâu ăn lá thuốc lá, sâu đục thân và sâu đục thân hồng.

Các hình dưới đây minh họa sự gia tăng tỷ lệ chấp nhận cho các giống “gộp các sự kiện”, có cả hai (trong một số trường hợp, nhiều) tính trạng HT và Bt. Việc áp dụng các giống xếp chồng đã tăng tốc trong những năm gần đây. Khoảng 89% mẫu bông và 80 % mẫu ngô được trồng bằng hạt gộp các sự kiện vào năm 2019.

Nguồn: ers.usda.gov