Ngày cập nhật 9 Tháng Tư 2012
Đã từ lâu, việc ngăn ngừa các tác hại về mặt môi trường được coi là “nguyên tắc vàng trong bảo vệ môi trường”. Những tổn hại về mặt môi trường không dễ sửa chữa và trong nhiều trường hợp những tổn hại không thể khắc phục. Ngay cả trong trường hợp có thể khắc phục những tổn hại này thì chi phí cũng rất cao.
Nguyên tắc phòng ngừa hay phương pháp tiếp cận phòng ngừa xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây và ngày càng được chấp nhận rộng rãi như một nguyên tắc chung của chính sách, luật pháp và quản lý môi trường. Nguyên tắc này là cách tiếp cận với các bất trắc, và đề ra các hành động nhằm tránh các tổn hại môi trường nghiêm trọng hoặc không thể sửa chữa trước khi có luận cứ khoa học về các tổn hại này.
Một trong những kết quả của Hội nghịLiên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển (Hội nghị Thượng đỉnh Trái Đất) tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil vào tháng 6 năm 1992 là sự thông qua Tuyên bốRio về Môi trường và Phát triển. Tuyên bố này bao gồm 27 nguyên tắc làm cơ sởcho phát triển bền vững. Một trong những nguyên tắc này là Nguyên tắc 15 “Đểbảo vệ môi trường, tiếp cận phòng ngừa nên được các quốc gia áp dụng rộng rãi tùy thuộc vào khả năng của mình. Trong trường hợp có các mối đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng hoặc không thể sửa chữa thì việc thiếu các bằng chứng khoa học không thể là lý do để trì hoãn các biện pháp hiệu quả về chi phí nhằm ngăn chặn suy thoái môi trường.”
Nghị định thư đã đề cập đến nguyên tắc phòng ngừa trong một số điều khoản sau:
– Phần Mở đầu và Điều 1 đều đề cập đến cách tiếp cận phòng ngừa được đưa ra trong Nguyên tắc 15 của Tuyên bố Rio.
– Phụ lục III(4) về đánh giá rủi ro cung cấp: “Thiếu kiến thức hoặc sự nhất trí về mặt khoa học thì không nên khẳng định một cấp độ rủi ro cụ thể, không có rủi ro hoặc rủi ro có thể chấp nhận được”.
– Điều 10(6) và Điều 11(8), đề cập đến các quyết định quan trọng đối với các LMO và LMO-FFP ở trên, khẳng định sự thiếu chắc chắn về khoa học vì không có đủ thông tin và kiến thức khoa học liên quan về mức độ các ảnh hưởng bất lợi tiềm ẩn của LMO đối với đa dạng sinh học, có quan tâm đến các rủi ro đối với sức khỏe con người, sẽ không cản trở quốc gia nhập khẩu quyết định nhập khẩu LMO nếu thấy thích hợp.